Chủ Nhật, 30 tháng 11, 2014

   Cho đến nay, thông qua các đợt khai quật khảo cổ học người ta đã xác định được cách đây trên 2000 năm trên vùng đất Bình Định ngày nay đã có cư dân văn hóa Sa Huỳnh sinh sống. Từ đầu Công nguyên (năm 192) trên dải đất miền Trung Việt Nam đã hình thành một nhà nước cổ đại, đó là Nhà nước Chăm-pa. Nhà nước Chăm-pa được xây dựng trên một nền tảng văn hóa hết sức rực rỡ, nó kế thừa những thành tựu của nền văn hóa Sa Huỳnh trước đó, đồng thời tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa cùng nhiều yếu tố của các nền văn hóa khác trong khu vực. Nhà nước Chăm-pa với sự khởi nguồn từ năm 192 đã kết thúc vai trò lịch sử riêng của mình vào nửa cuối thế kỷ XVII, chấm dứt sự tồn tại đầy oanh liệt của mình trong suốt 16 thế kỷ.

Bình Định là vùng đất trung tâm của miền Trung Việt Nam với gần 5 thế kỷ giữ vai trò trung tâm của nhà nước Chăm-pa, mặc dù có nhiều bước thăng trầm, chiến tranh xảy ra liên miên, nhưng văn hóa Chăm-pa ở đây vẫn phát triển cho đến khi nhà nước Chăm-pa mất vai trò lịch sử. Dấu tích văn hóa của thời kỳ nhà nước Chăm-pa tồn tại trên đất Bình Định còn để lại vô cùng phong phú, đa dạng về loại hình, nhiều về số lượng và trở thành đối tượng quan trọng trong việc tiếp tục nghiên cứu khảo cổ về Bình Định.

Tháng 7 năm 1471, vua Lê cho lập phủ Hoài Nhơn gồm 3 huyện là: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Từ đó người Việt bắt đầu tiến vào sinh sống trên vùng đất Bình Định ngày nay. Năm 1490 (chưa đầy 20 năm sau), theo Thiên nam dư hạ tập cho biết: dưới thời Hồng Đức, Phủ Hoài Nhơn có 19 tổng và 100 xã.
              


Năm 1570, Nguyễn Hoàng, người được vua Lê cử trấn nhậm hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam lúc bấy giờ có cả phủ Hoài Nhơn.

Năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng cho đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Nhơn.

Năm 1651, dưới thời Nguyễn Phúc Tần, chúa cho đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Ninh. Năm 1702, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho lấy lại tên cũ là Quy Nhơn và vẫn được gọi suốt thời kỳ Tây Sơn. Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát đặt các đạo làm dinh, nhưng cấp phủ vẫn giữ nguyên. Phủ Quy Nhơn vẫn thuộc về dinh Quảng Nam, đặt các chức tuần phủ và khám lý để cai trị. Phủ lỵ được dời ra phía Bắc thành Đồ Bàn, đóng tại thôn Châu Thành (nay thuộc xã Nhơn Thành, An Nhơn).

Từ thời các chúa Nguyễn, ở đàng Trong nói chung, Bình Định nói riêng đã có sự phân hóa giàu nghèo, địa vị khác nhau và các tầng lớp trong xã hội. Đặc biệt vào đầu thế kỷ XVII, vấn đề trên càng trở nên mâu thuẫn sâu sắc. Cho đến trước cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn 1771, ở Bình Định đã nổ ra nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân, trong đó tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Chàng Lía: cướp của nhà giàu, chia cho dân nghèo, trừng phạt quan lại hống hách bức hiếp dân. Nhưng tồn tại chẳng được bao lâu, cuộc khởi nghĩa của Lía bị thất bại.

Năm 1773, cuộc khởi nghĩa nông dân của ba anh em nhà Tây Sơn do Nguyễn Nhạc đứng đầu đã phát triển xuống Tây Sơn hạ đạo, chiếm lĩnh đất Kiên Thành (nay là Kiên Mỹ) nơi đã từng sinh ra các thủ lĩnh Tây Sơn, Nguyễn Nhạc tự xưng là đệ nhất trại chủ cai quản hai huyện là Phù Ly và Bồng Sơn. Cùng trong năm đó (1773), nghĩa quân Tây Sơn tiếp tục đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn.

Tháng 3 năm 1776, Nguyễn Nhạc cho sửa chữa và xây thêm thành Đồ Bàn, rồi đổi tên là thành Hoàng Đế, tự xưng Tây Sơn vương, cho đúc ấn vàng, phong cho Nguyễn Lữ làm Thiếu phó, Nguyễn Huệ làm Phụ chính, các tướng lĩnh khác đều được phong chức cho tương xứng với một chính quyền Trung ương mới được thành lập. Năm 1793, sau khi vua Quang Trung chết, Nguyễn Ánh đem quân đánh thành Hoàng Đế. Nguyễn Nhạc bị bệnh sai con là Nguyễn Bảo chỉ huy kháng cự, quân của Nguyễn Bảo bị thua, bỏ chạy. Vua Quang Toản sai thái úy Phạm Công Hưng, hộ giá Nguyễn Văn Huấn, Đại tư lệ Lê Trung, Đại tư mã Ngô Văn Sở cùng tướng thủy quân là Đặng Văn Chân từ Phú Xuân vào cứu viện, đánh quân Nguyễn Ánh. Quân Nguyễn Ánh thua chạy. Quân Quang Toản vào thành, Nguyễn Nhạc mang vàng bạc ra khao quân. Phạm Công Hưng và các tướng lĩnh ra lệnh tịch thu châu báu và binh giáp các kho rồi chiếm thành. Nguyễn Nhạc phẫn uất hộc máu chết.

Từ năm 1793 – 1799, thành Hoàng Đế đổi thành phủ Quy Nhơn dưới vương triều Cảnh Thịnh, cũng là bước đường suy yếu của Tây Sơn.
                     

Từ năm 1799 – 1802, thành Quy Nhơn bị quân Nguyễn Ánh chiếm đóng và đổi làm thành Bình Định và suốt chiều dài lịch sử, đây là trung tâm cai trị của triều Nguyễn tại Bình Định trong những năm đầu thế kỷ XIX.

Đến năm 1885, Bình Định là một tỉnh lớn ở Trung Kỳ, nhiều vùng đất của Gia Lai, Kon Tum còn thuộc về Bình Định.

Năm 1890, thực dân Pháp sát nhập thêm Phú Yên vào Bình Định thành tỉnh Bình Phú, tỉnh lỵ là Quy Nhơn. Nhưng đến năm 1899, Phú Yên tách khỏi Bình Phú, Bình Định lại trở thành tỉnh độc lập.

Năm 1907, toàn quyền Đông Dương lại ra Nghị định bãi bỏ tỉnh Plâycu Đe. Một nửa đất đai của tỉnh này cho sát nhập trở lại vào tỉnh Bình Định.

Năm 1913, thực dân Pháp lại sát nhập Phú Yên vào tỉnh Bình Định thành tỉnh Bình Phú.

Năm 1921, thực dân Pháp tách tỉnh Phú Yên ra, lập lại tỉnh Bình Định và kéo dài cho đến năm 1945.
                             

    Cùng với cuộc cách mạng tháng Tám long trời, lở đất, ngày 3/9/1945, sau khi khởi nghĩa dành chính quyền thắng lợi UBND cách mạng lâm thời mới của tỉnh lấy tên tỉnh Bình Định là tỉnh Tăng Bạt Hổ. Tuy nhiên tỉnh Tăng Bạt Hổ thay cho tỉnh Bình Định chưa được Trung ương công nhận, trên các văn bản chính thống của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vẫn không thay đổi tỉnh Bình Định, do đó tỉnh Tăng Bạt Hổ tồn tại không được bao lâu.

    Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954) Bình Định là tỉnh tự do hoàn toàn, là hậu phương chiến lược trực tiếp của chiến trường khu V, Tây Nguyên, Nam Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia. Chín năm kháng chiến gian khổ và anh dũng đó, nhân dân Bình Định dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã góp công, góp sức cùng cả nước đánh thắng thực dân Pháp xâm lược, buộc chúng phải ký Hiệp Định Giơnevơ tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam.

    Tuy nhiên theo tinh thần Hiệp định này, đất nước ta còn tạm thời chia cắt làm 2 miềm: miền Bắc được giải phóng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào, trong đó có tỉnh Bình Định còn phải chịu dưới ách thống trị của bọn tay sai đế quốc, chờ tổng tuyển cử thống nhất đất nước.

    Trong khi Hiệp Định Giơnevơ (1954) về Đông Dương ký chưa ráo mực, Đế Quốc Mỹ hất cẳng Pháp nhảy vào miền Nam dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm hòng biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ.

    Chính quyền Ngô Đình Diệm chia miền Nam Việt Nam thành hai miền: từ Bình Thuận trở vào gọi là Nam phần; từ Bình Thuận trở ra vĩ tuyến 17 gọi là Trung phần. Trung phần lại chia thành hai khu vực, gọi là Trung nguyên Trung phần và Cao nguyên Trung phần. Tỉnh Bình Định thuộc Trung nguyên Trung phần và vẫn giữ là một đơn vị hành chính cấp tỉnh như trước đây cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30-4-1975).

    Trong suốt 20 năm (1954 – 1975), thực hiện lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng về đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc, quân và dân tỉnh Bình Định đã vượt qua vô vàn hi sinh, gian khổ, chiến đấu anh dũng, kiên cường, bám đất, bám dân góp phần cùng cả nước đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng quê hương yêu dấu của mình vào ngày 31/3/1975.
                   

   Từ cuối năm 1975 đến năm 1989, tỉnh Bình Định hợp nhất với tỉnh Quảng Ngãi lấy tên là tỉnh Nghĩa Bình. Trong 15 năm hợp nhất nhân dân Bình Định cùng với nhân dân Quảng Ngãi ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành cải tạo và phát triển kinh tế-xã hội; giữ vững an ninh quốc phòng, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

    Từ năm 1989, tỉnh Bình Định được tái lập trở lại từ tỉnh Nghĩa Bình. Từ đó đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng, nhân dân Bình Định đã ra sức xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, có nhiều đổi mới về nếp nghĩ trong phát triển kinh tế, tạo nên sự biến đổi sâu sắc trong đời sống của mỗi người dân. Một cuộc sống mới tốt đẹp ở tương lai: ấm no, hạnh phúc, dân chủ, công bằng, văn minh đã và đang được nhân dân Bình Định cùng với cả nước phấn đấu xây dựng


Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2014


Đất Bình Định có nhiều tháp, cụm tháp Chàm nằm rải rác ở 8 địa điểm thuộc các huyện phía nam tỉnh, như cụm tháp Dương Long (3 tháp) ở huyện Tây Sơn; tháp Bánh Ít (4 tháp) ở Phước Lộc, Tuy Phước; tháp Cánh Tiên ở Nhơn Hậu, An Nhơn và một số tháp ở Phù Cát. Riêng Quy Nhơn có tháp Đôi (2 tháp) ở gần đường Trần Hưng Đạo, cửa ngõ vào thành phố.

     





Tháp Đôi

Tháp Đôi Quy Nhơn tọa lạc tại làng Hưng Thạnh xưa, bây giờ thuộc phường Đống Đa, cách trung tâm thành phố chừng 3 km về phía tây bắc. Gần tháp Đôi là cầu Đôi trên quốc lộ 19, bắc trên nhánh sông từ hồ đèo Son chảy ra đầm Thị Nại. Chẳng hiểu sao người xưa lại cứ "ghép đôi":

                                             Cầu Đôi liền với Tháp Đôi

                                     Quanh năm quấn quýt như tôi với nàng


Tháp Đôi cũng như các tháp Chàm khác ở Bình Định, là một di tích văn hóa nghệ thuật mang màu sắc tôn giáo của người Chăm xa xưa. Các tháp có niên đại từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII. Tháp cấu trúc khá độc đáo, đặc biệt là kỹ thuật mài dũa, lắp ghép các tảng đá chồng khít lên nhau rất vững chắc.

Quanh tường phía ngoài, các góc và trên nóc tháp có nhiều bức phù điêu chạm khắc các hình tượng thần, chim, thú thần theo tín ngưỡng của người Chăm rất sinh động. Tháp Đôi một lớn một nhỏ đứng gần kề nhau như cặp vợ chồng quấn quít. Tháp đã bị chiến tranh và thời gian tàn phá khá nặng nề.

Được sự giúp đỡ của các chuyên gia Ba Lan và các chuyên gia khảo cổ trong nước, tháp Đôi đã được Nhà nước đầu tư hàng tỉ đồng để trùng tu, tôn tạo. Từ 1991-1997, các cán bộ khoa học và những người thợ khéo ở Quy Nhơn đã miệt mài đục đẽo, tạo tạc với kỹ thuật mài gạch, lắp ghép khá thành công, trả lại gần như dáng vẻ ban đầu của tháp.

Tháp Đôi Quy Nhơn không chỉ là nơi để các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa Đông Nam Á, văn hóa Chăm tiếp tục công việc mà còn là một điểm tham quan du lịch hấp dẫn ở Bình Định.

. Nguyễn Văn Chương

Nguồn: http://www.baobinhdinh.com.vn/568/2004/10/15605/

Bình Định có truyền thống hát bội từ lâu đời và phát triển thành phong trào mạnh mẽ với nhiều tên tuổi đào, kép lừng danh cả nước. Từ xưa, khi các làng xã ở Bình Định có lễ đình, chùa vào dịp cúng kính Xuân kỳ, Thu tế đều tổ chức hát bội. Thậm chí với những gia đình khá giả khi sinh con, gặp dịp may phát tài hoặc giỗ kỵ trong nhà cũng tổ chức hát bội để tăng phần long trọng. Có những khi đám hát kéo dài suốt cả tháng liền. Chính vì vậy ở Bình Định có rất nhiều làng hát bội, nhiều gánh hát bội ra đời.


                                                            Biểu diễn hát bội ở Phước An. 

Từ thời Đào Tấn đến trước năm 1975 ở Bình Định đã có nhiều gánh hát bội do học trò và những học trò của học trò Đào Tấn làm bầu. Đến khoảng thời gian từ 1975 đến 1986 ở Bình Định có hơn 60 gánh hát bội không chuyên, chủ yếu tập trung ở các làng xã thuộc huyện Tuy Phước, An Nhơn, Tây Sơn, Phù Cát... Tất cả các làng hát bội ấy đều có kép hay, đào đẹp khiến người xem mỗi khi “Tai nghe trống chiến, không khiến cũng đi; nghe dục trống chầu, đâm đầu mà chạy".

Ở huyện Tuy Phước vào đầu thế kỷ XX, quê hương của vị hậu Tổ hát bội Đào Tấn, các gánh hát chủ yếu tập trung ở các xã Phước An, Phước Nghĩa, Phước Lộc, Phước Hoà. Tiêu biểu là các gánh hát ở xã Phước An với truyền thống lâu đời, nổi bật nhiều nghệ sĩ lừng danh như Chánh ca Đựng, Chánh ca Ghềnh, Phó ca Thơm, Nhưng Sung, Thập Ân... Cả gia đình Chánh ca Đựng đều nối nghiệp hát bội và nổi tiếng với những vai diễn để đời. Cha con, anh em lập gánh hát riêng, bà con dân làng thuộc tên cứ gọi gánh bầu Thơm, gánh bầu Tho. Các gánh hát nổi tiếng ở Phước An và trong tỉnh là gánh của Chánh ca Ghềnh (tức Võ Ngũ) thuộc thôn An Sơn xã Phước An, sau này truyền lại cho Năm Cập. Đây là gánh hát có tiếng vang xa, mỗi khi gánh hát lên đèn thì khán giả đi xem rất đông.

Những năm 1920 đến 1930 ở thôn An Hòa nổi tiếng gánh hát của Chánh ca Đựng. Sau này truyền lại cho bầu Thơm (Võ Bản). Em trai bầu Thơm là Võ Sâm cũng lập gánh hát, từ An Hòa đi lưu diễn khắp nơi. Tiếp sau thời kỳ này là các gánh hát của bầu Xuân, rồi Ngọc Cầm, vợ chồng nghệ sĩ Hoàng Cẩm. Nghệ sĩ ưu tú Ngọc Cầm sinh ra trong một gia đình có truyền thống hát bội. Thân sinh của bà là cửu phẩm Võ Đựng thuộc làng Dương An (nay là An Hòa 1) xã Phước An được triều đình nhà Nguyễn phong tặng danh hiệu Chánh ca. Võ Nhì (Ghềnh) là chú ruột của bà cũng được phong tặng danh hiệu Chánh ca. Bầu Thơm là anh thứ hai, bầu Sau là anh thứ ba của Nghệ sĩ ưu tú Ngọc Cầm. Hai người anh của bà đã kế tục sự nghiệp của cha mình, gìn giữ và phát triển các gánh hát ở địa phương, rồi đến lượt bà cũng như các thế hệ cha anh, Ngọc Cầm đã theo gánh hát ở Phước An biểu diễn rất nhiều nơi trong tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng, Huế, Gia Lai, Kom Tum, Đắc Lắc và một số địa phương Nam bộ lúc bấy giờ. Năm 1971 Ngọc Cầm cùng đoàn hát đi Sài Gòn dự thi do Đoàn Khổng học tỉnh tuyển chọn với hai vở diễn là: Ngũ hổ bình tây và Hộ sanh đàn.

Năm 1972, Ngọc Cầm cùng nghệ sĩ Long Trọng tham gia thành lập gánh hát “Ý hiệp miền Trung” tại Quảng Nam. Đến năm 1975 lên Gia Lai thành lập Đoàn hát bội Bình Nguyên. Năm 1980 về Quy Nhơn tham gia thành lập Đoàn tuồng 3 thuộc Nhà hát tuồng Nghĩa Bình (nay là Nhà hát tuồng Đào Tấn). Hiện nay Nghệ sĩ ưu tú Võ Thị Ngọc Cầm đang ở cùng con gái của mình tại thành phố Playku nhưng Bà vẫn gắn bó nghề nghiệp với Nhà hát tuồng Đào Tấn và giúp đỡ bầu Hoàng Minh (cháu Bà) về nghiệp tổ. Lúc này ở thôn Đại Hội xã Phước An cũng có gánh Bầu Sa (Nguyễn Bá) tập trung được một số đào, kép giỏi nên cũng gây được tiếng vang tại địa phương. Có thể nói hoạt động của các gánh hát ở xã Phước An diễn ra vô cùng sôi nổi, chiếm được cảm tình tốt đẹp của mọi tầng lớp khán giả.

Luôn gìn giữ nghệ thuật sân khấu truyền thống, Phước An là địa phương có nhiều gánh hát bội không chuyên qua nhiều thế hệ so với các xã trong huyện Tuy Phước. Cả Phước An với sáu thôn thì có thời điểm năm thôn đều thành lập gánh hát. Ở thôn An Sơn có gánh hát do Nguyễn Bì (Dư) làm bầu. Thôn Đại Hội có gánh hát bội do Nguyễn Tòng (Tám Tòng) con trai bầu Sa phụ trách.Và thôn An Hòa vẫn là nơi có gánh hát mạnh nhất xã với một thế hệ diễn viên trẻ như Mười Hàn, Kim Chung, Ngọc Hương, Hoàng Minh, Linh Nghiệp đầy tài năng, sung sức trên con đường nghệ thuật. UBND xã Phước An đã quyết định thành lập Đoàn hát bội mà nòng cốt là các diễn viên thôn An Hòa. Cho tới nay, Đoàn hát bội Phước An vẫn đi lưu diễn nhiều nơi trong và ngoài tỉnh, tạo được những ấn tượng tốt đẹp cho người xem. Nhiều diễn viên của Đoàn hát bội Phước An đã đoạt huy chương vàng, huy chương bạc, bằng khen tại các kỳ hội diễn sân khấu không chuyên toàn quốc. Năm 1992 ông Tô Đình Cơ lúc đó là Chủ tịch UBND tỉnh đã dẫn đội tuyển các nghệ sĩ hát bội không chuyên gồm sáu người của Bình Định ra biểu diễn phục vụ Quốc hội tại thủ đô Hà Nội thì Đoàn hát bội Phước An có hai diễn viên là Kim Chung và Ngọc Hương vinh dự được góp mặt. Có thể nói các gánh hát bội ở Phước An từ xưa nay đều có nhiều đào hay, kép giỏi, đi biểu diễn ở đâu cũng được khán giả yêu mến về phong cách và ngợi khen về nghệ thuật. Đó là một nét son, niềm tự hào về văn hóa cổ truyền dân tộc của Phước An nói riêng và Bình Định nói chung.


                   

                                          Cảnh trong vở diễn của Đoàn hát bội Phước An.


Diễn trình lịch sử - văn hóa đã hình thành những làng hát bội cổ truyền hầu như không tách hẳn ranh giới với các lò võ thuật cổ truyền và nền nông nghiệp. Suy cho cùng, sinh mệnh của các làng hát bội khởi thủy chỉ nhằm vào việc phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa và phản ảnh, giáo dục lối sống, nếp sống của chính người nông dân trong các làng xã nông nghiệp. Cho nên khi đặc trưng ấy có sự thay đổi cũng chính là những thử thách đối với sự nghiệp hát bội không chuyên trong việc gìn giữ, đổi mới và phát triển. Khi luỹ tre làng không còn là rào chắn của mọi hoạt động kinh tế - xã hội; mọi điều diễn ra một cách công bằng trước thực tế cạnh tranh và giao lưu, hội nhập thì các làng hát bội cổ truyền cũng phải tự mình gìn giữ, phát huy và đổi mới trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, phải tự khẳng định mình trước nhiều bộ phận khán giả.

Trong xã hội hiện đại, các loại hình văn hóa nghệ thuật như điện ảnh, sân khấu ca nhạc, kịch nói, truyền hình, internet… ngày càng tỏ ra nhiều ưu điểm thuyết phục và cũng là một nguyên nhân làm ảnh hưởng đối với nghệ thuật sân khấu hát bội nói chung, làng hát bội cổ truyền ở Phước An nói riêng. Tất nhiên cũng có những gánh hát, những làng hát bội do đặc điểm lịch sử, cũng như trước sự phát triển không ngừng về mọi mặt như báo chí, điện ảnh, phát thanh, truyền hình, sân khấu ca nhạc hiện đại… đã không còn lý do tồn tại trong một cộng đồng nào đó, tức là không tự mình vươn lên, tìm kiếm trong sáng tạo nghệ thuật trên nền tảng đã được bồi đắp bao đời để đem lại nét mới lạ, hấp dẫn trước biển người khán giả coi hát bội đã có từ xưa nay.

Nghệ thuật hát bội có thể phát huy được khả năng cạnh tranh, xứng đáng được khuyến khích bảo trợ trong nền kinh tế hiện đại. Bởi, trong một cách hiểu nào đó, nó không mang nét lạnh lùng, đơn điệu, khô cứng hay hào nhoáng trong phút chốc của những món nghề biểu diễn mà đòi hỏi người xem phải có tư duy hưởng thụ một sắc thái văn hóa, hiểu một pho chuyện được đoàn hát biểu diễn mới thấm thía ý nghĩa mà diễn viên thể hiện trên sân khấu. Ngược lại, có một số loại hình biểu diễn dễ xâm nhập người xem hơn, tiết tấu nghệ thuật đòi hỏi tinh xảo, phong phú nhưng không hàm chứa sắc thái văn hóa dân tộc bản địa và mang ý nghĩa giáo dục truyền thống.

Hiện nay làng hát bội cổ truyền ở Phước An đã có những bước phát triển mới, đã dàn dựng, biểu diễn một số vở tuồng tiểu thuyết, tuồng truyện bên cạnh các vở tuồng đồ, tuồng thầy, tuồng pho, làm phong phú loại hình biểu diễn trong các tầng lớp khán giả. Do vậy, khán giả đến với nghệ thuật sân khấu hát bội không chỉ để tìm những hồi ức quá khứ, tìm hiểu nét văn hóa đặc trưng của một vùng, của một dân tộc mà còn bị thuyết phục bằng chính những nét đẹp tự thân được hun đúc bao đời nay, những giá trị “đỉnh cao” của nghệ thuật cổ truyền. Nói như vậy chúng tôi không hề có ý định phủ nhận những thành tựu các loại hình biểu diễn hiện đại được sáng tạo ra hàng loạt, hoặc thiếu tính khẳng định về sự cần thiết của nó như là vết son của những phát kiến đầy trí tuệ của con người trong đời sống xã hội.

Làng hát bội cổ truyền ở Phước An không chỉ góp phần đáp ứng nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật sân khấu truyền thống của “cái đại dương khán giả” từ xưa nay mà biểu thị bản sắc văn hóa người Bình Định; là một trong những làng cổ truyền tạo dấu ấn cho du khách về làng xã nông thôn Bình Định gắn liền với quá trình gìn giữ và phát triển nghệ thuật sân khấu hát bội ở Bình Định. Đồng thời chúng ta cũng không thể chấp nhận với một đoàn nghệ thuật sân khấu truyền thống hát bội ngày càng mai một những món nghề độc đáo mà thay vào đó những cách tân, cải biên mang nặng tính thị hiếu bình dân tức thời và thiển cận.

Làng hát bội cổ truyền ở Phước An không chỉ đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo nghệ thuật sân khấu truyền thống mà một vài năm trở lại đây có sự gợi mở, tác động đến phát triển kinh tế, nhưng các tuyến du lịch tham quan của du khách đến Bình Định đối với văn hóa nghệ thuật vẫn chưa được quan tâm đúng mực. Không có gì lạ khi chúng ta thấy ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển cao của thế giới, các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống, làng nghề sân khấu truyền thống và những đoàn hát nghệ thuật sân khấu không chuyên có mối quan hệ hữu cơ và có chỗ đứng quan trọng trong đời sống kinh tế - văn hóa của họ. Đối với kho tàng di sản văn hóa Bình Định, để có được một làng hát bội cổ truyền và những gánh hát bội không chuyên như ở xã Phước An chúng ta đã trải qua 200 năm, cả một diễn trình lịch sử hình thành và phát triển làng xã.

NGUYỄN VĂN NGỌC (Tạp chí KH&CN)



Nguồn: http://www.baobinhdinh.com.vn/viewer.aspx?macm=26&macmp=26&mabb=28697


“Rủ nhau đi đánh bài chòi - Để con nó khóc cho lòi rốn ra”, câu ca xưa phần nào cho thấy sức lôi cuốn của diễn xướng bài chòi với người dân lao động. Bao đời nay, các thế hệ nghệ sĩ, nghệ nhân Bình Định dành nhiều tâm huyết để sáng tạo, vun đắp cho nghệ thuật bài chòi. Và hội đánh bài chòi cũng nhận được sự hưởng ứng tích cực của công chúng. Tuy nhiên, bộ bài chòi vốn vẫn được sử dụng trong hội đánh bài chòi ở Bình Định có nguồn gốc từ đâu?


     

                                         Quang cảnh hội bài chòi. Ảnh tư liệu SVH,TT&DL


Bài chòi, bài tới

Hiện nay, một số nhà nghiên cứu đưa ra luận cứ rằng Ðào Duy Từ (1572-1634), người Thanh Hóa, theo chúa Nguyễn vào Nam, điểm dừng chân đầu tiên của ông là Bình Định. Đào Duy Từ đã dựa theo mô hình tiêu khiển ở các chòi canh miền núi mà sáng tạo ra hội bài chòi. Từ lối sinh hoạt văn hóa nương rẫy, ông ứng dụng vào trò chơi đánh bài trên chòi, dần dần có tên gọi là hội đánh bài chòi. Về sau, hội bài chòi thường được tổ chức trong những dịp xuân nên được gọi là hội đánh bài chòi xuân.

Thực tế cho thấy, dù bài tới phổ biến khắp Trung - Nam bộ, nhưng bài chòi chỉ phổ biến ở Trung bộ. Có lẽ vì lý do này mà một số nhà nghiên cứu cho rằng bài chòi ra đời muộn mằn hơn hát bội, hát sắc bùa?

Bài tới, theo định nghĩa của tác giả Huỳnh Tịnh Của trong Đại Nam quốc âm tự vị (1896, tập II, trang 455), là “Thứ bài bắt cặp, ai bắt được đủ cặp trước thì gọi là tới, nghĩa là đến trước, rồi cũng được ăn tiền”. Chúng ta không có cứ liệu nào để xác định thời điểm ra đời của bài tới, nhưng trò chơi này trong bối cảnh phong hóa cộng đồng dễ phát triển và lan tỏa theo quy luật trình mở cõi về phương Nam. Có lẽ đó cũng là lý do mà bài tới phổ biến đến tận Nam bộ.

             

                                                 Thẻ cái. Ảnh tư liệu SVH,TT&DL

Từ đánh cờ tướng với hai người chơi đã tích hợp nhiều yếu tố người trình diễn biến thành trò chơi cờ người diễn ra ở sân đình, chùa, những nơi sinh hoạt văn hóa lễ hội nói chung. Đây là một ví dụ. Từ bài tổ tam (người Quảng Nam gọi là tổ tôm), bài tam cúc biến thành tổ tam điếm (chòi) là những ví dụ khác. Ở đây bài tới đã tích hợp với ca nhạc, với chòi/ điếm với rạp/ sân khấu (ngày nay) để trở thành hội đánh bài chòi hấp dẫn. Bài chòi phát triển mạnh đến mức lấn át danh tiếng và cách chơi khác nhiều so với bài tới, nhưng về bộ bài để chơi bài chòi lại cũng là bộ bài để chơi bài tới, không thay đổi gì cho mấy.

Bài chòi, bài tổ tam

Bộ bài chòi có 30 con, chia làm ba pho, gọi là pho Văn, pho Vạn, pho Sách; mỗi pho có 9 con bài (quân bài) và một con bài Yêu (ba con bài Yêu: Ông Ầm, Thái Tử, Bạch Huê). Tên gọi con bài tùy từng địa phương có cách gọi di bản khác nhau. Con bài làm bằng giấy bời, hình chữ nhật (2x 8,5cm), in một mặt đồ án biểu trưng cho con bài và lưng phét màu đỏ sẫm.

Do sự giống nhau của bộ bài chòi, bài tới và bài tổ tam ở chỗ cả ba loại bài đều chia thành ba pho và ba con bài Yêu nên không ít nhà nghiên cứu đã khẳng định mối quan hệ nguồn gốc của bài chòi, bài tới và bài tổ tam có quan hệ với nhau.

Thực ra, xét đồ án hình họa của các con bài tương ứng bài chòi và tổ tam, chúng ta thấy nhiều khác biệt: Bài tổ tam vẽ đa số là hình người Nhật (đầu, mình, tứ chi, dụng cụ cầm tay, vác vai và thêm vào đó là hình tháp (con Ngũ vạn), cá (con Bát vạn), trái đào (con Nhị vạn), thuyền buồm (con Ngũ sách). Còn ở bộ bài chòi thì đồ án trang trí mang tính trừu tượng và hình người trừu tượng, chủ yếu là bán thân hay mặt người. Bài tổ tam mang dấu vết bộ bài chòi là các biểu tượng và chữ Hán - Nôm xác định số thứ tự của con bài.

                 

                                        Ban nhạc trong hội bài chòi. Ảnh tư liệu SVH,TT&DL

Chữ Hán - Nôm: Từ chữ nhất đến chữ cửu trên 9 con bài của pho Vạn; và các chữ ghi tên 3 con bài Yêu: Ông Ầm, Thái Tử và Bạch Huê (Bạch Tuyết).

Về biểu trưng, có hai loại: Hình tròn nhỏ có chấm ở giữa (tạm gọi là nút), hiểu là nút chỉ số điểm của mặt xúc xắc, cũng có thể hiểu là đồng tiến điếu và hình tượng đồng tiền nguyên/ tròn giữa vuông hoặc một nửa đồng tiền/ bán nguyệt.

Biểu tượng thể hiện “phức nghĩa”, đặc biệt là các đồ hình trên 9 con bài của pho Sách là đối tượng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và theo đó có những biện giải khác nhau. Chẳng hạn như con bài Nhứt Nọc (có địa phương gọi Nọc Thược, Nọc Đượng) được gán cho hình vẽ biểu tượng dương vật và cho rằng nó có nguồn gốc từ Linga của văn hóa Chăm. Theo đó, con Bạch Huê lại được coi là âm vật (Yoni) của văn hóa Chăm. Thế là từ cặp Linga - Yoni, một số nhà nghiên cứu cho rằng bài chòi có gốc gác chi đó với văn hóa Chăm. Thậm chí từ đồ hình quân bài Ba Gà, có người liên tưởng đến hình khắc trên trống đồng Đông Sơn. Các biện giải quá mức này chủ yếu dựa vào sự diễn dịch chủ quan. Thực ra, cách gọi tên con bài bài Chòi, bài Tới là của dân gian, “coi mặt, đặt tên”, tức dựa trên hình tướng đặc trưng nào đó của hình họa mà gọi tên. Và như vậy, trong cái nhìn trực quan là có thể đạt được sự thích đáng cần thiết để có thể phân biệt các con bài.

Khi xưa, chữ Quốc ngữ chưa có, chữ Hán - Nôm cũng không phổ cập rộng rãi trong dân gian, đặc biệt đối với người bình dân thì không phải ai cũng đọc được mặt chữ Hán - Nôm in trên con bài, thì các biểu tượng “nút” và “đồng tiền điếu” có chức năng chỉ số (nhất đến cửu) cho các con bài pho Văn và pho Sách. Đó là các ký hiệu để phân biệt các con bài của bộ bài chòi. Còn đồ hình ở pho Sách được các nhà nghiên cứu biện giải đa tạp, thật ra là hình vẽ các chồng, xâu tiền điếu cộng với dãi uốn cong như hình con rắn, để chỉ rõ chúng thuộc pho Sách. Sách, chữ Hán có nghĩa là dây (ví dụ Quyến Sách nghĩa là dây lụa). Nếu gọi là có mối quan hệ giữa bài chòi với bài tổ tam là hình vẽ dây lằng ngoằn, là một trong các bằng chứng tương đối rõ ràng nhất. Một bằng chứng khác, là con bài Bạch Huê (Bạch Tuyết) của bài chòi, bài tới tương ứng với con bài thang thang của bài tổ tam.

Nói chung, tuy có một số điểm tương đồng giữa bộ bài chòi, bài tới, bài tổ tam, xong xét một cách tường tận hơn thì có nhiều điểm bất cập. Điều này đòi hỏi phải nghiên cứu thật dài hơi, đối chiếu với các loại bài giấy (chỉ bài) khác, đặc biệt là các loại bài gốc từ Diệp tử mã điếu của Trung Quốc.

                       

     Người hô hiệu phải là người có kiến thức văn chương, biết ứng đối... Ảnh tư liệu SVH,TT&DL

Bài chòi, bài diệp tử mã điếu, bài toàn đối

Hình thức cờ bạc phổ biến nhất ở Trung quốc thời cổ là gieo xúc xắc. Một số trò trực tiếp thắng thua dựa vào kết quả của việc gieo xúc xắc; còn có nhiều trò phải kết hợp gieo xúc xắc với đánh cờ, đánh bài mới có thể quyết định thắng bại. Ngoài xúc xắc, hình thức cờ bạc tương đối quan trọng khác là bài xương, ra đời vào niên hiệu Tuyên Hòa thời Bắc Tống. Bài xương hoặc bài ngà, trên thực tế là biến thái từ xúc xắc, trên mặt mỗi con bài là do hai mặt xúc xắc kết hợp lại thành các con bài có điểm (nút) lớn nhỏ khác nhau. Đó là cội nguồn của hình nút (hình tròn nhỏ có chấm ở giữa) trên một số con bài của bộ bài chòi, bài tới đã nói ở phần trên.

Ngoài bài xương, bài ngà ở Trung Quốc còn phổ biến loại bài giấy. Thời cổ gọi là Diệp tử (xuất hiện từ thời Đường), đến thời nhà Minh, nhà Thanh trò chơi bài lá này đặc biệt thịnh hành. Bài diệp tử có hai loại: Diệp tử in theo điểm số của bài xương in ra và diệp tử mã điếu thì dùng nhiều lớp giấy bồi in lên. Diệp tử có 40 lá, chia làm 4 môn (pho): Thập tự, Vạn tự, Sách tự, Văn tiền.

Bài diệp tử mã điếu lưu hành từ niên hiệu Vạn Lịch thời Minh, đến đời nhà Thanh biến đổi thành bài mặc hòa, chỉ còn lại ba pho: Pho Vạn, pho Sách và pho Văn. Ngoài loại bài mặc hòa, còn có một số loại biến thể khác như đấu hổ, chỉ trương.

Những dữ liệu về loại bài diệp tử mã điếu đã chỉ ra mối quan hệ loại bài này với bài chòi, bài tới, bài tổ tam, có số lá con bài, cơ cấu ba pho và đồ án hình họa tương đồng về phần “lý’; còn về phần “biểu” thì phải nói đến Đông Quan bài.

                       

                                             Diễn bài chòi lớp. Ảnh tư liệu SVH,TT&DL


Đông Quan bài (bài Đông Quan) còn gọi là bài toàn đối, vốn xuất xứ và phổ biến ở huyện Đông Quan (Quảng Đông - Trung Quốc). Bộ bài này gồm 120 lá, chia làm bốn bộ (mỗi bộ 30 con bài), mỗi bộ có ba pho: Văn, Vạn, Sách, mỗi pho có 9 con bài, và ba con bài lẻ (gọi là ba con bài đặc biệt, bài Yêu): Đại hồng, Tiểu hồng và Bát xuyến. Các con bài của ba pho đều mang số từ 1 đến 9. Hình học của pho Văn và pho Vạn cũng dùng hình quan tiền và nút làm biểu tượng chỉ số điểm. Riêng pho Vạn vẽ hình nhân vật, trên mỗi lá bài có ghi số điểm bằng chữ Hán (Nhất…, Cửu).

Một vài nhận định

Về mặt đồ án (hình họa), mối quan hệ của bộ bài chòi, bài Tới với loại bài diệp tử mã điếu và đặc biệt là bài Đông Quan (Trung Quốc) là rõ ràng hơn và trực tiếp hơn so với bài tổ tam. Theo đó, các biểu tượng của hình họa trên các lá bài của bài chòi, bài tới được hiểu tự sự đối sánh với các loại đồ án và chức năng khu biệt “danh - số” của diệp tử mã điếu và toàn đối.

Các con bài thuộc pho Vạn: Có chữ viết Hán tự, người bán thân và đồ án trang trí ở dưới cùng. Ở các con bài này, hình người bán thân hẳn bắt nguồn từ nhân vật Hý khúc hay nhân vật Thủy hử thuộc pho Vạn của diệp tử mã điếu và toàn đối. Đối với bộ bài chòi, bài tới trong chừng mực nào đó là mặt tuồng (hát bội) – loại hình “Hý khúc” chiếm vị trí thống trị một thời ở các tỉnh Trung bộ nói chung, Bình Định nói riêng, nơi bộ bài chòi, bài tới thịnh hành. Đặc trưng nhất là đôi mắt xếch, rất tuồng và đặc trưng khu biệt là khăn, mũ đội đầu như học trò (Nhứt trò), thầy (Cửu chùa) đội mũ Tì lư.

Bài diệp tử mã điếu có 4 pho, đến thời nhà Thanh biến đổi thành bài mặc hòa, đấu hổ, chỉ trương có 3 pho. Điều này cho phép đoán định niên đại ra đời của bộ bài chòi, bài tới ở nước ta sớm nhất trong thời nhà Thanh (Trung quốc), giữa cuối thế kỷ XVII trở về sau. Song vì lý do khách quan, bài chòi đòi hỏi tính tiêu khiển tập thể cao, mang tính cộng cảm cao và nhiều lý do khác nên ít thấy lưu lạc vào vùng đất Nam bộ theo chân các vị khai khẩn vùng đất mới.

                       

                           Một cảnh lại quả khi du khách trúng thưởng. Ảnh tư liệu SVH,TT&DL


Tại hội thảo “Phát triển sân khấu ca kịch bài chòi miền Trung” do Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) tổ chức tại Nha Trang tháng 10.1991, có ý kiến cho rằng: Cái gốc của các làn điệu cổ, xuân nữ, xàng xê... đang sử dụng trong hát bội, cải lương đều bắt nguồn từ bài chòi mà ra. Hư thực thế nào, vấn đề đang còn tranh luận. Duy nhất một điều được mọi người đồng ý với nhau: Là các điệu thức trong hô bài chòi có nhiều nét tương đồng với hát bội và cải lương. Đây không phải là sự pha tạp để làm mất cái nguyên gốc ban đầu của chính nó, mà chỉ thêm vào để một bài hô hay hơn và cùng song hành trong đời sống làng xã nông thôn Bình Định nói riêng, vùng đất miền Trung nói chung.

Đánh bài mặc hòa, đấu hổ, bài xì, tứ sắc, roulette hay cờ tướng... nếu không vay mượn của phương Tây thì cũng vay mượn của Trung Hoa, ngược lại đánh bài chòi là hoàn toàn của người Bình Định, người Việt Nam, do người Việt Nam nghĩ ra, không chịu ảnh hưởng nước ngoài nhiều, song cũng phải thừa nhận đã tiếp thu có chọn lọc của loại hình bài diệp tử mã điếu và toàn đối. Tên gọi của những lá bài hầu hết đề tên Nôm, rất ít từ Hán -Việt. Những chữ Hán, chữ Nôm trên các lá bài trộn lẫn vào nhau hầu như không theo một định lệ, khuôn thước nào. Điều này đủ để giúp chúng ta hiểu thêm tinh thần độc lập của người Việt, đồng thời chứng minh rằng đánh bài chòi là một trong những kiểu thức đặc trưng của văn hóa dân gian Bình Định, cũng như miền Trung Việt Nam.

Tính đơn giản trong tên gọi, khiến cho trò chơi đánh bài chòi được phổ thông hơn. Nó không giới hạn trong tính cách của người chơi, không ẩn dụ sau cánh cửa của các nhà quyền quý, cao sang mà cho tất cả mọi người cùng tham gia. Như vậy “Tính chất phổ thông hóa, bình dân hóa của trò chơi đánh bài chòi dễ kết nạp thêm yếu tố, một lối ca hát có nguồn gốc sâu xa vào trong sinh hoạt dân gian của người dân Bình Định nói riêng và các tỉnh Nam Trung bộ Việt Nam.

NGUYỄN VĂN NGỌC



Nguồn: http://www.baobinhdinh.com.vn/viewer.aspx?macm=26&macmp=26&mabb=28310

Thứ Tư, 26 tháng 11, 2014



     Hoài Ân, một vùng đất trung du, được thiên nhiên ban tặng phong cảnh cảnh hữu tình. Trong đó, Thác Đổ ở thôn Nghĩa Điền, xã Ân Nghĩa là một cảnh đẹp mà ai một lần đến cũng lưu luyến.

             

                                   Dòng suối nước nhấp nhô đá với dòng nước trong lành.


    Muốn thăm Thác Đổ Nghĩa Điền, khi đến thị trấn Tăng Bạt Hổ du khách đi theo Tỉnh lộ 630 khoảng 25km là đến gần thác. Thác Đổ nằm ẩn mình giữa những ngọn núi cao và những cánh rừng bạt ngàn thuộc địa phận thôn Nghĩa Điền. Ngồi dưới bóng thác ta được nghe câu chuyện huyền thoại về cô gái Bana ra suối đợi chờ người yêu, mắt xa xăm nhìn về đầu nguồn con nước, lộ lưng trần để mái tóc óng mượt xõa dài, xõa dài điểm bạc rồi hóa đá mà hôm nay nhìn ngọn thác tưởng như mái tóc nàng bồng bềnh giữa đại ngàn.

    Trong nắng sớm những ngày đầu xuân, chúng tôi quyết tâm cuốc bộ từ thôn Nghĩa Điền vào thác, mất 30 phút, trên con đường đất gồ ghề sỏi đá dẫn vào thắng cảnh mà người dân địa phương bảo vẫn còn hoang sơ lắm.

   Từ đằng xa, đã cảm nhận âm thanh róc rách vang vọng tạo ra bởi dòng suối đang tuôn trào vỗ xô những ghềnh đá. Và rồi, hiện ra trước mặt, con suối nhấp nhô đá thấp, đá cao, hòn lớn, hòn nhỏ, cùng dòng nước trong vắt, mát lạnh.

   Thác Đổ Nghĩa Điền hiện ra ngất cao, ào ào nước đổ tung bọt trắng xóa. Thật là một cảnh thiên nhiên kỳ vĩ, hoang sơ. Độ dài suối thác khoảng chừng 500 mét, nhiều tầng lớp đá, hòn to, hòn nhỏ tạo khe rảnh, con nước lúc len lỏi, chầm chậm, lúc tuôn chảy, gấp gáp. Và đặc biệt, từ trên cao chừng 30m một ngọn nước xối mạnh ào ào trên một vách đá dựng cao tạo nên cảnh thác nước đẹp và sảng khoái khi được ngâm mình trong dòng suối mát.

   Thác Đổ Nghĩa Điền tuy hoang sơ nhưng cứ mỗi dịp tết đến xuân về, dịp nghỉ lễ và nhất là vào mùa hè người dân trong huyện và các nơi về đây thăm thú hòa mình với thiên nhiên. Hy vọng tương lai không xa, Thác Đổ Nghĩa Điền sẽ được khai thác phục vụ du lịch của huyện trung du miền núi Hoài Ân.

                               

                                                Nước suối chảy len qua các lèn đá.



                     

                   

                                          

                           Suối đá nhấp nhô, nước chảy qua các gộp đá tạo âm thanh ầm ào.

                       


                            Vực đá dựng cao, nước từ dòng suối trên cao đổ xuống trông hùng vĩ.
                       

                                                 Cận cảnh khu vực chân thác nước.
                           

                                                                Toàn cảnh Thác Đổ.                          


                                              Du khách chụp ảnh lưu niệm bên thác nước.



   Bài, ảnh : Võ Chí Hà


    Ðảo Cù Lao Xanh (hay Vân Phi) nằm gần vịnh Xuân Ðài, thuộc xã Nhơn Châu, thành phố Quy Nhơn (Bình Ðịnh). Giữa vùng biển quanh năm sóng gió, nhiều khó khăn, những người dân trên đảo vẫn vững vàng tay lưới, vươn khơi bám biển, xóa đói, giảm nghèo và xây dựng cho mình một đời sống văn hóa tinh thần phong phú, đậm đà bản sắc.

               

                                                 Phong cảnh làng chài trên đảo Cù Lao Xanh.


   Từ bờ biển Quy Nhơn hướng ra khơi xa có thể thấy một dáng đảo mờ xanh phía chân trời. Cách đất liền chưa đầy 17 km, nhưng để đến được Cù Lao Xanh là một hành trình khá gian nan. Xuất phát từ bến Hàm Tử, Quy Nhơn để đi Cù Lao Xanh, mỗi ngày chỉ có một chuyến tàu gỗ, khởi hành lúc một giờ chiều và trở về đất liền vào sáu giờ sáng hôm sau.

   Rời bến, con tàu nhấp nhô trên những con sóng bạc đầu. Cảng Hàm Tử êm đềm xa dần tầm mắt, sóng mạnh dần. Thuyền chao đảo, nghiêng ngả. Cơn say sóng "hành hạ" nhiều người. Ngay cả bà chủ tàu tên Lảm mới đầu hồ hởi thu vé của khách, nói cười rôm rả, thế mà đến nửa đường với vội khẩu trang, ngồi dựa mạn tàu... Bên ngoài, sự ồn ào của "bầy sóng" khiến con tàu gỗ lắc lư, lắm đoạn tràn cả vào mũi thuyền.

                         

                                           Nhộn nhịp cảng cá trên đảo Cù Lao Xanh.


   Khi chủ tàu thông báo "Cù Lao Xanh kia rồi", nhiều khách thở phào vì tưởng đã đến đích. Nhưng tiếp đó là thông báo chuyển sang thuyền nhỏ để vào đảo. Trước mắt chúng tôi, ba người đàn ông vừa chèo, vừa níu sợi dây thừng nối từ bờ cảng Cù Lao Xanh để kéo thuyền vào. Anh lính biên phòng cùng chuyến tàu lúc này mới rỉ tai tôi. Trước kia có bãi cát, thuyền có thể cập bến được. Nhưng sau sóng gió làm thay đổi, bãi cát biến mất, thuyền lớn chỉ ra được đến đây. Trong cơn sóng vỗ dồn dập, một trong ba ngư dân trên thuyền nhỏ phải vất vả nhiều lần tung dây để níu được thuyền vào con tàu khách. Qua vài ba lượt chuyên chở mất khá nhiều thời gian, ba chục hành khách trên tàu mới lên được đảo.

   Thế mới biết, cư dân của đảo đã phải bền bỉ, đều đặn vật lộn hằng ngày với biển để kết nối cuộc sống giữa đảo với đất liền. Qua đó đủ thấy, khó khăn trong cuộc sống mưu sinh của ngư dân để bảo đảm những điều kiện tối thiểu trong lao động, sản xuất và sinh hoạt.

   Nỗi vất vả của chuyến đi được đền đáp khi chúng tôi đặt chân lên đảo bởi vẻ đẹp của cảnh quan và sự chân tình, chất phác của những người dân nơi đây. Làng chài nằm nghiêng dưới chân núi dường như trở nên thơ mộng hơn trong ráng chiều nhuộm vàng mặt biển. Quyện trong gió, khói lam chiều thoang thoảng hương lửa bếp, mùi cơm thơm pha trộn sự mặn mòi của biển. Khung cảnh thơ mộng như vậy vẫn không che được những thiếu thốn, khó khăn của Cù Lao Xanh. Hóng gió trên bờ kè ven biển chờ đoàn thuyền đánh cá về đảo, cụ Tấu vui vẻ bắt chuyện với các vị khách từ đất liền. Cụ cho biết, con trai lớn đang đi biển sắp cưới vợ, muốn vào Quy Nhơn mua sắm một số đồ cho con, ngặt một nỗi tuổi già, đi lại khó khăn và cũng phải đợi sau đợt đánh bắt tới mới đủ tiền. Bà Minh, hàng xóm của cụ Tấu ngồi cạnh chia sẻ: "Cuộc sống của bà con chỉ trông chờ vào biển, vất vả lắm, nhưng biết làm thế nào, mấy đời nhà tôi đã bám biển rồi. Trước đây, ông nhà tôi và các cháu cũng có ghe lớn, đánh bắt xa bờ. Sau này, đi biển lỗ quá, đành bán thuyền để đầu tư vào các thuyền nhỏ câu mực, gần bờ hơn".

   Buổi tối, anh Phong, cán bộ UBND xã Nhơn Châu đến góp chuyện cùng khách, tâm sự về những khó khăn của nghề biển trên đảo. "Những năm trước, cả đảo có 127 phương tiện tàu thuyền đánh cá cỡ lớn, nhiều sức ngựa. Nhưng hiện giờ còn ít, vì đi gần tháng trời mà mỗi người chỉ được một triệu đồng, người dân phải tính cách thay đổi phương thức đánh bắt, lựa chọn các phương tiện vừa phải và quy mô nhỏ, phù hợp khả năng kinh tế". Anh Phong nói, chỉ tay về hướng biển, nơi ánh đèn của các thuyền đánh cá đêm lập lòe, giải thích: "Bây giờ, dân trên đảo tập trung vào đánh bắt cá cơm, cá mực, thu nhập ổn định mà chi phí không quá tốn kém".

                               

                                     Trẻ em làng chài Cù Lao Xanh vui chơi trên bãi biển.

   Trước đây, Cù Lao Xanh chỉ có đường đất chật hẹp, gồ ghề thì hiện nay, với sự hỗ trợ của tỉnh, xã đã đầu tư bê-tông hóa toàn bộ đường liên thôn. Ðây được coi là một sự thay đổi lớn đối với nhân dân xã đảo, hàng chục năm trước, ít người biết đi xe, nhưng trẻ con hiện đã đi học bằng xe đạp, hầu hết các hộ gia đình đều có xe máy. Bên cạnh đó, một cầu cảng cá được ngân sách nhà nước đầu tư cùng một hệ thống bơm nước ngọt, nước sạch dành cho sinh hoạt của nhân dân, phục vụ nhu cầu xử lý, bảo quản hải sản. Mới đây, đảo có cả trạm tiếp sóng phát thanh - truyền hình và hệ thống đài truyền thanh cung cấp thông tin, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa cho nhân dân toàn xã...

   Theo ban lãnh đạo xã Nhơn Châu, số lượng hộ nghèo của xã hằng năm đều giảm từ 20 đến 30 hộ. Năm 2000, tỷ lệ hộ nghèo toàn xã chiếm 38,4% thì qua 14 năm phấn đấu, đến nay chỉ còn 57 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 3,18% tổng số hộ toàn xã. Sự đổi mới về cuộc sống này đã giúp đời sống tinh thần của người dân được cải thiện và nâng cao rõ rệt; các lễ hội truyền thống của nhân dân xã đảo được bảo tồn và giữ gìn; phong trào thể dục - thể thao được duy trì và phát huy; các phong trào đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, từ thiện cũng được quan tâm và được Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam tặng Bằng ghi công.

   Sau những nỗ lực không biết mệt mỏi, cuộc sống của cư dân trên đảo Cù Lao Xanh giờ đã khởi sắc, tươi mới. Bác Ðặng Văn Chiến, từng là công an viên của xã đứng cạnh chiếc ghe chở nặng cá cơm, hồ hởi: "Tôi quê gốc Tam Quan, ra đảo lấy vợ và lập gia đình hàng chục năm nay. Nhờ những thúng cá cơm này và đàn lợn chăn nuôi mà vợ chồng tôi nuôi được năm đứa con ăn học đàng hoàng. Ba đứa đang học đại học".

   Buổi sáng, bình minh trên biển Nhơn Châu rạng ngời. Thuyền bè tấp nập ra khơi, cập cảng. Vượt qua khó khăn để vươn lên, làm chủ cuộc sống dẫu còn nhiều vất vả, khó khăn, Cù Lao Xanh và xã đảo Nhơn Châu đang vững vàng hướng về phía trước với quyết tâm làm giàu từ biển, góp một phần nhỏ bé trong chiến lược phát triển kinh tế biển của đất nước.


   Ông Phan Văn Binh, Bí thư Ðảng ủy xã Nhơn Châu: Những năm gần đây, sau khi định hình rõ hướng dịch vụ và đánh bắt, tình hình đời sống nhân dân trên đảo đang từng bước cải thiện rõ rệt. Người dân thay đổi cách nghĩ, cách làm kinh tế, thu nhập năm sau cao hơn năm trước. Ngoài đánh cá, nhiều hộ dân còn làm nông nghiệp, nuôi trai lấy ngọc, nuôi gà, lợn, làm dịch vụ phục vụ đánh bắt hải sản, mở quán ăn và buôn bán tạp hóa,... Vốn bỏ ra không nhiều nhưng thu lại hiệu quả. Kinh tế khởi sắc nên chúng tôi có điều kiện cải tạo, xây dựng lại đường sá giao thông. Nhà cửa được xây dựng kiên cố khang trang. Các công trình điện, đường, trường, trạm được đầu tư đầy đủ.




   Theo Phong Chương (báo Nhân dân)

Thứ Hai, 24 tháng 11, 2014



Một trong những nét độc đáo nhất khi nói về miền đất võ Bình Định đó là có nhiều làng võ tồn tại lâu đời. Tuy nhiên, hiện nay hai trong ba làng võ nổi danh nhất là An Vinh, An Thái đang trên đường trở thành… hoài niệm.
 

Cố gắng níu giữ

Trước đây, ở làng võ An Thái (xã Nhơn Phúc, thị xã An Nhơn) có nhiều võ đường nổi tiếng thu hút đông người học. Cùng với sự đi xuống trong phong trào luyện tập võ cổ truyền, nhiều võ đường ở đây cũng đã ngừng dạy. Hiện tại, chỉ còn võ đường Bình Sơn (thôn Thắng Công, xã Nhơn Phúc) là cố gắng gìn giữ việc truyền dạy võ được tiếp nối qua nhiều thế hệ của dòng họ Lâm.

Cách đây khoảng 6 năm, trong lần gặp mặt đầu tiên với võ sư Lâm Ngọc Phú tại võ đường Bình Sơn, chúng tôi được ông chia sẻ nỗi niềm về việc giới trẻ trong vùng không còn mặn mà học võ… Trở lại võ đường Bình Sơn một ngày đầu tháng 4, chúng tôi thắp nhang tưởng nhớ võ sư Lâm Ngọc Phú. Ông khuất núi khi còn nhiều hoài vọng, tâm huyết với võ cổ truyền chưa thực hiện được. Bà Lê Thị Nhạn, người bạn đời của võ sư Lâm Ngọc Phú, cho biết: “Sau khi ông nhà mất, con gái tôi là Lâm Thị Hồng Hạnh đã đi thi lấy bằng huấn luyện viên cấp tỉnh để tiếp tục kế nghiệp cha đứng lớp dạy học trò tại khoảnh sân nhỏ sau vườn nhà, nhưng cũng chỉ có ít người học. Tại nhà con trai tôi là Lâm Ngọc Ánh ở gần đây có nhiều học trò hơn”.


   

Hai cha con võ sư Trần Dần đang cố gắng gìn giữ phong trào luyện tập võ cổ truyền tại An Vinh.


Chúng tôi tìm gặp võ sư Lâm Ngọc Ánh (59 tuổi) đang ngồi sửa bình ắc quy trong nhà, đây là công việc mưu sinh chính của ông. Nghe hỏi về việc gìn giữ truyền thống làng võ An Thái, ông buồn bã tâm sự: “Chủ yếu dịp hè mới có nhiều học sinh đến học võ để tự vệ là chính. Tôi và em gái đều dạy võ miễn phí, bỏ thêm tiền túi ra mua sắm dụng cụ cho các em luyện tập để động viên gắn bó gìn giữ võ cổ truyền”.

Làng võ An Vinh cũng đang trong tình trạng không còn nhiều điểm dạy, người học võ cổ truyền. Kiên trì nhất trong việc gìn giữ truyền thống ở làng võ An Vinh là võ đường của võ sư Trần Dần (thôn An Vinh 1, xã Tây Vinh, huyện Tây Sơn) đã được Bộ VH-TT&DL tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn hóa, thể thao và du lịch, của Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam vì đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp võ thuật cổ truyền. Võ sư Trần Dần (76 tuổi) tâm sự: “Tôi tuổi cao sức yếu, cũng nhờ có con trai út Trần Văn Trong chịu theo nghiệp cha để hỗ trợ truyền dạy cho học trò. Lượng người học ngày càng ít lại không theo đuổi lâu dài, nên khó tìm được người đáp ứng yêu cầu để truyền dạy nhiều bài quyền An Vinh có giá trị độc đáo riêng mà tôi đang gìn giữ”.

Cần sự tiếp sức

Trước đây, các võ sĩ ở An Vinh, An Thái luôn phát huy tốt truyền thống khi thi đấu đối kháng và đoạt nhiều thành tích cao. Tuy nhiên, việc chỉ còn vài võ đường với ít người học đã khiến phần lớn các võ đường ở An Vinh, An Thái dần “chìm khuất” trong sự phát triển của phong trào luyện tập võ cổ truyền ở các địa phương trong tỉnh hiện nay.

Võ sư Lâm Ngọc Ánh cho biết: “Để góp phần đưa võ cổ truyền tiếp cận nhiều người học hơn, Trung tâm VH-TT-TT thị xã An Nhơn nhiều lần có giấy giới thiệu, đề nghị Trường THCS Nhơn Phúc tạo điều kiện cho tôi vào truyền dạy võ cho học sinh nhưng đều không được...Tôi cũng có khá nhiều học trò tận Nghệ An, Thanh Hóa vào, đam mê luyện tập và thể hiện năng khiếu rất tốt. Tiếc là hoàn cảnh kinh tế của các em khó khăn nên không thể ở lại tập luyện nhiều năm, tôi muốn giữ học trò cũng không có điều kiện”.

Khó khăn trong việc giữ học trò gắn bó lâu dài để nâng cao trình độ, tiếp bước trong việc bảo tồn và phát huy võ cổ truyền cũng là điều mà võ sư Trần Dần trăn trở. “Khôi phục phong trào luyện tập võ cổ truyền ở An Vinh vừa dễ lại vừa khó. Dễ là tại địa phương vẫn còn một số người dạy võ tâm huyết để truyền dạy. Khó là làm sao giữ chân được các em, bởi nhiều gia đình hiện nay cũng không muốn con em gắn bó lâu dài với nghiệp võ vì đầu ra còn bấp bênh”, võ sư Trần Dần phân tích.

Khôi phục phong trào luyện tập võ cổ truyền ở An Vinh, An Thái là việc làm cấp thiết không chỉ mang ý nghĩa về mặt thể thao, mà còn là bảo tồn nét văn hóa truyền thống đặc sắc của miền đất võ Bình Định. Điều này không thể chỉ dựa vào nỗ lực của một số ít võ đường hiện nay, mà đòi hỏi sự chung tay hỗ trợ của các đơn vị liên quan. Ông Nguyễn Văn Tấn, Phó Giám đốc Trung tâm VH-TT-TT huyện Tây Sơn, cho biết: “Trên cơ sở khảo sát, tìm hiểu sự đi xuống của phong trào luyện tập võ cổ truyền ở xã Tây Vinh, chúng tôi đang bàn bạc để lập đề án trình lãnh đạo huyện đề nghị có sự quan tâm đầu tư khôi phục lại phong trào tại địa phương”.

HOÀI THU



Nguồn: http://www.baobinhdinh.com.vn/viewer.aspx?macm=12&macmp=13&mabb=20255
Hơn 40 năm gắn bó với nghiệp dạy võ, võ sư Hà Trọng Ngự đã có nhiều đóng góp cho công tác bảo tồn và phát huy võ cổ truyền Bình Định tại nhiều địa phương trong và ngoài tỉnh. Hiện đã gần ở tuổi thất thập, định cư ở TP Hồ Chí Minh, võ sư Hà Trọng Ngự vẫn miệt mài truyền dạy học trò của mình những tinh hoa võ cổ truyền của dân tộc. Nhân dịp về tham gia Liên hoan Quốc tế Võ cổ truyền Việt Nam lần thứ V - Bình Định 2014, võ sư đã dành cho phóng viên Báo Bình Định một cuộc trao đổi thân tình.

Võ sư Hà Trọng Ngự cùng con trai võ sư Hà Trọng Kha Vy (người đứng thứ tư và năm từ phải qua) và các đệ tử về tham gia Liên hoan Quốc tế Võ cổ truyền Việt Nam lần thứ V – Bình Định 2014.


Truyền nhân của “Hùm xám miền Trung”


Hà Trọng Ngự sinh năm 1947, tại huyện Tuy Phước. Kế thừa truyền thống võ học của dòng họ, từ năm 6 tuổi, Hà Trọng Ngự đã được gia đình cho học võ. Được người bác là võ sư Hà Trọng Sơn, người được mệnh danh là “Hùm xám miền Trung” truyền dạy tận tình, Hà Trọng Ngự nhanh chóng phát triển tối đa năng khiếu võ thuật và giành nhiều chiến thắng khi thượng đài.


* Có lẽ ông đã học được hết những tinh hoa từ thầy Hà Trọng Sơn?


- Bể học bao la, tôi không dám nhận là “đã học được hết những tinh hoa từ sư phụ Hà Trọng Sơn”. Tôi có thuận lợi vừa là học trò vừa là cháu nên được thầy Hà Trọng Sơn tận tâm truyền dạy không chỉ về võ thuật, mà còn về cách đối nhân xử thế. Thầy luôn nhắc nhở tôi cố gắng khổ luyện nhiều tuyệt kĩ như các bài quyền Ba chân hổ, Bạch miêu quyền, Linh miêu độc chiến, Xà miêu lưỡng thử… Đây là nền tảng võ học vững chắc để tôi có được những thành công trong thi đấu và gắn bó lâu dài với nghiệp võ.


* Sau năm 1975, trong nhiều năm liền, ông đào tạo được nhiều học trò đấu đài đạt thành tích cao. Sau đó, ông được giao làm HLV phó đội tuyển Võ cổ truyền Bình Định năm 1995 – 1996, chắc ông có nhiều bí quyết?


- Tùy vào địa điểm thi đấu mà tôi có cách chỉ dạy học trò phù hợp. Nếu đấu dưới đất, khi địch thủ đánh thì mình thối lui di chuyển trước để thăm dò đối thủ rồi mới phản công. Còn khi thi đấu trên sàn đài thì phải vừa tấn công vừa phòng thủ, có lúc giả bại dụ địch chủ quan để rơi vào tình huống phản đòn bất ngờ không kịp trở tay. Khi đối phương tấn công thì phải nhanh chóng áp sát để phá đòn thế, hạ đối phương… Đại loại là thế nhưng còn tùy vào đối thủ là ai, sở trường sở đoản của họ như thế nào, khả năng của mình, thậm chí là sức khỏe, tâm lý của mình có tốt không để có cách xử lý phù hợp. Mình phải chỉ đạo, hướng dẫn học trò liên tục theo diễn biến của trận đấu nữa.


* Từng đảm nhận vai trò Chủ tịch Hội võ thuật TP Quy Nhơn vào những năm 90. Ông có nhận xét gì về sự phát triển của võ cổ truyền khi ấy ?


- Phong trào luyện tập võ cổ truyền ở TP Quy Nhơn khi đó phát triển mạnh, có tổng cộng 16 võ đường thu hút đông người luyện tập. Hội võ thuật TP Quy Nhơn thường xuyên tổ chức cho các võ đường thi đấu giao lưu với nhau để các võ sĩ được va chạm, tích lũy kinh nghiệm.

   

                                   Võ sư Hà Trọng Ngự đang luyện tập tại chùa Đồng Hiệp.


Dụng võ Bình Định ở đất phương Nam


Năm 1997, võ sư Hà Trọng Ngự chuyển vào miền Nam để sống gần các con, đồng thời mong muốn quảng bá rộng rãi môn phái “Việt Nam võ ta - Tây Sơn Bình Định” qua việc mở các võ đường ở TP Biên Hòa, TP Hồ Chí Minh.


* Ông có thể cho biết vì sao môn phái lại lấy tên gọi “Võ Ta- Tây Sơn Bình Định” ?


- Môn phái Việt Nam Võ Ta - Tây Sơn Bình Định do võ sư Hà Trọng Sơn sáng lập nên. Thầy Sơn đã nhấn mạnh cho các học trò về tên gọi của môn phái nhằm khẳng định niềm tự hào về võ cổ truyền Việt Nam nói chung, võ Tây Sơn - Bình Định nói riêng là võ thuật của chúng ta mang những giá trị độc đáo riêng, chứ không phải là võ Tàu, võ Tây.


Năm 2009, khi thầy Hà Trọng Sơn lâm bệnh nặng, ông cho gọi tôi về giao lại “ấn tín” và chức Chưởng môn Việt Nam Võ Ta - Tây Sơn Bình Định. Tôi luôn khắc cốt ghi tâm những lời gan ruột thầy dặn dò khi ấy: “Cả cuộc đời thầy gắn bó máu thịt với võ cổ truyền. Giờ thầy lâm trọng bệnh không còn sống được bao lâu, nay giao lại cho con nhận lãnh sứ mệnh gìn giữ và phát triển môn phái. Con thực hiện tốt được điều này thì thầy ở dưới suối vàng cũng mãn nguyện”.


* Khi đến sống ở các vùng đất mới, việc truyền dạy võ cổ truyền Bình Định của ông như thế nào ?


- Ngay trong thời gian đầu đến TP Biên Hòa vào năm 1997, tôi đã treo bảng truyền dạy võ cổ truyền Bình Định, học trò tìm đến ngày càng đông. Đến năm 2007, tôi lại chuyển lên TP Hồ Chí Minh để sống gần các con hơn. Nhờ cũng là Phật tử và có mối quan hệ tốt với chủ trì chùa Đồng Hiệp ở quận Gò Vấp, tôi đã được nhà chùa tạo điều kiện cho mượn khoảng sân rộng để dạy võ.


Để gầy dựng lứa học trò ban đầu, tôi dạy võ miễn phí cho các thầy ở chùa Đồng Hiệp, rồi dạy võ cho lực lượng thanh niên tham gia dân phòng, phường đội. Những học trò này sau đó thấy học hiệu quả trong rèn luyện sức khỏe, tự vệ và đấu tranh chống tội phạm, nên đã giới thiệu thêm nhiều người khác đến học.


* Quan điểm của ông khi truyền dạy học trò ?


- Xây dựng nền tảng đạo đức cho học trò luôn là “kim chỉ nam” phát triển môn phái chúng tôi. Học trò khi nhập môn phải tuyên thệ 10 điều môn quy để luôn kính tổ, trọng thầy, yêu mến bạn đồng môn, khiêm tốn, thật thà… đồng thời khi Tổ quốc cần thì phải tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tôi phân tích cho học trò hiểu về tinh thần võ đạo cao đẹp của võ cổ truyền Bình Định. Từ đó, các em coi việc học võ là để rèn luyện sức khỏe, tự vệ là chính. Dù người ta có gây gổ tấn công mình thì cũng phải biết nhẫn nhịn, tránh né đòn để lấy “nhu chế cương” cho qua chuyện. Nếu bị dồn ép nguy hiểm lắm thì mới phản đòn, chứ không sử dụng võ thuật tùy tiện để đánh người.

                   
Võ sư Hà Trọng Ngự (người đứng sau) đang luyện tập cùng học trò ở điểm dạy võ chùa Đồng Hiệp (quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh).


Đóng góp bảo tồn và phát huy võ cổ truyền Bình Định

* Hơn 40 năm mở võ đường truyền dạy học trò, võ đã có những trải nghiệm và đóng góp gì cho việc bảo tồn và phát huy võ cổ truyền Bình Định ?


- Không dễ để truyền dạy thành công học trò nếu bản thân người thầy trước đó không đam mê khổ luyện thành tài. Tôi cố gắng góp nhặt những tinh hoa võ cổ truyền Bình Định, kết hợp với những kinh nghiệm tích lũy qua từng năm tháng gắn bó với nghiệp võ để tận tâm truyền lại cho thế hệ sau. Theo thống kê ghi chép trong sổ sách của môn phái, 17 năm qua tôi đã truyền dạy võ cổ truyền Bình Định cho hơn 12.000 môn sinh ở TP Biên Hòa và TP Hồ Chí Minh. Đó là chưa kể đến số lượng học trò tôi đã truyền dạy trong khoảng thời gian 25 năm trước đó khi còn ở quê nhà Bình Định. Tôi hiện có 16 học trò trình độ võ sư, cùng nhiều học trò là chuẩn võ sư, huấn luyện viên tích cực tham gia truyền bá võ cổ truyền Bình Định lan tỏa đến nhiều tỉnh, thành khác trong cả nước. Trong đó, có hai học trò là võ sư đang dạy võ cổ truyền Bình Định ở các nước Mỹ, Na Uy.


* Hiện nay đã gần ở tuổi thất thập, ông có suy nghĩ gì về tương lai truyền dạy võ cổ truyền Bình Định?


- Tôi vẫn còn sung sức truyền dạy học trò hằng ngày. Nhiều năm qua, tôi cũng dành nhiều thời gian ghi chép tài liệu, quay băng đĩa về các tinh hoa võ thuật của môn phái để thế hệ sau tiếp tục học hỏi, nghiên cứu phát triển. Tôi cũng tham gia cộng tác với Ban nghiên cứu võ cổ truyền của Liên đoàn Võ cổ truyền Việt Nam. Trong nhiều buổi họp mặt đồng hương của người Bình Định ở TP Hồ Chí Minh, tôi đều dẫn học trò đến biểu diễn phục vụ.


Một điều khiến tôi yên lòng là các con trai đều đam mê luyện tập võ cổ truyền từ nhỏ, nên hiện đều có thể kế cận tôi truyền dạy tốt cho học trò. Con trai Hà Trọng Kha Vy (33 tuổi) có nghề chính là dược sĩ, nhưng cũng là võ sư dành thời gian truyền dạy võ cổ truyền vào mỗi buổi tối. Hai người con trai khác của tôi là kiến trúc sư, nhưng cũng đã được công nhận chuẩn võ sư, huấn luyện viên quốc gia võ cổ truyền.


* Lần đầu tiên được mời về tham gia Liên hoan Quốc tế Võ cổ truyền Việt Nam lần thứ V - Bình Định 2014, ông nhìn nhận như thế nào về sự phát triển của võ cổ truyền Việt Nam nói chung và Bình Định nói riêng ?


- Thật vinh dự khi gia đình tôi cùng học trò được trở về quê hương để đóng góp chung vào việc giới thiệu, quảng bá võ cổ truyền Bình Định đến với bạn bè võ thuật trong nước và quốc tế. Tham gia giao lưu, biểu diễn cùng các đoàn ở các võ đường, tôi thấy võ cổ truyền Việt Nam đã được các võ sư, võ sinh người nước ngoài đam mê tập luyện và đem về các tiết mục trình diễn khá tốt trong Liên hoan.


Sau khi võ cổ truyền Bình Định được vinh danh là di sản văn hóa quốc gia, cần có thêm những kế hoạch, hoạt động thiết thực để bảo tồn và phát huy hiệu quả hơn nữa. Phải làm sao cho thế hệ trẻ ở Bình Định hiện nay có ý thức, cũng như được tạo điều kiện luyện tập võ cổ truyền để bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống độc đáo của miền đất võ.


* Xin cảm ơn võ sư. Chúc ông mạnh khỏe để tiếp tục cống hiến cho võ cổ truyền Bình Định.


HOÀI THU (Thực hiện)


Nguồn: http://www.baobinhdinh.com.vn/viewer.aspx?macm=32&macmp=32&mabb=25874

Thứ Hai, 17 tháng 11, 2014


     
     

     Tré Bình Định nổi tiếng và được nhiều người biết đến bởi vị chua chua, ngọt ngọt, thơm dịu và đặc biệt là hình dáng giống cán chiếc chổi rơm thơm mùi lúa mới. Tré Bình Định chủ yếu được làm từ thịt tai heo, thịt đầu heo, thịt ba chỉ cùng các vị đặc trưng: vừng (mè), thính (gạo rang xay nhỏ, thính bánh tráng giả nhỏ), riềng, ớt hiểm, lá ổi non để cuốn bên ngoài và một gia vị nữa không thể thiếu là tỏi.

      Để có được cái Tré thơm ngon, đúng vị phải nhờ vào đôi bàn tay khéo léo của người gói Tré. Ba sôi không thiếu hai lạnh, thịt sau khi chần sơ qua nước sôi hoặc nhúng qua chảo mỡ sôi sùng sục sẽ ngâm với nước sôi để nguội cho thịt giòn và không bị dính. Sau đó, dùng dao thái nhanh rồi nêm nếm các loại gia vị thật khéo. Những lá ổi non được bao bên ngoài cái tré và sau mới đến lớp chuối. Hỗn hợp Tré rải đều lên trên, người gói vừa vê vừa cuốn thật chắc tay.

     Người làm tré phải chọn những cọng rơm lúa mới, tách hết lớp lá khô bên ngoài, rồi xếp đều quanh cây Tré. Tré được ủ bên trong lớp áo rơm dày chừng 3cm bó chặt hai đầu bằng lạt và cuốn quanh bằng dây dừa. Chắc ai từng có dịp ghé Bình Định sẽ không khỏi ngạc nhiên bởi những chiếc cán chổi được treo lủng lẳng ở khắp các quán nhậu và quý khách sẽ còn ngạc nhiên hơn khi được thưởng thức món ăn hấp dẫn này nhờ vị bùi bùi, béo béo. Sẽ còn thú vị hơn nếu được nhâm nhi món Tré cùng với những ly rượu Bầu Đá thơm nồng

Thứ Tư, 5 tháng 11, 2014

                                    

     

        Làng Châu Trúc nằm quay mặt ra bờ đầm Châu Trúc (còn gọi là đầm Trà Ổ) là một trong những đầm nước ngọt lớn nhất tỉnh. Người dân làng Châu Trúc sống bằng nghề làm ruộng và chài lưới. Chính hai nghề này và tâm hồn người Châu Trúc đã tạo nên một món ăn thú vị, thấm đẫm hồn đất, hồn nước và mộc mạc như tâm hồn người dân cần cù lao động. Đó là món bún tôm Châu Trúc. Đầu tiên phải kể đến khâu làm bún. Gạo được ngâm vào nước cho mềm rồi mang đi xay. Nước bột gạo được cho vào túi vải đăng ráo nước, sau đó đưa bột vào cối giã nhuyễn. Mỗi cối bột là một dặn. Dặn (khuôn) ép bún được làm bằng ống nhôm, một đầu để trống, một đầu hàn kín, đáy xăm lỗ li ti để khi ép, bún từ đó mà chạy ra. Thân dặn được lắp vào bàn ép đặt cố định trên nồi nước luộc bún bắc trên bếp lò. Người bán bún ép bún từ dặn, bún chạy thẳng vào nồi nước luộc. Nước sôi, cọng bún gạo từ màu trắng đục chuyển sang màu trắng trong là coi như bún chín, dùng rá vớt bún, xóc sơ qua trong nước nguội là coi như xong phần bún.


       Tôm dùng làm bún phải là những con tôm đất được đánh bắt từ đầm Châu Trúc, hãy còn sống, nhảy tanh tách, bỏ vào cối giã nhuyễn cùng với tí muối, tí ớt... Khi có người đến ăn bún, người bán dùng đũa gẩy một đũa thịt tôm cho vào bát, cho chút bột ngọt, nước mắm, múc nước luộc bún đang sôi đổ vào bát khuấy đều, sau đó cho bún vào, rắc mấy cọng hành ngò, vẩy chút tiêu. Tô bún nghi ngút khói, toả hương thơm dìu dịu, lại có thêm một cái bánh tráng nướng giòn, ăn vào thấy cay cay, vừa ngon, vừa ngọt, trong lành mà đậm đà hương vị. Cái vị ngọt nhẩn nha lan tỏa... Dân dã là thế, nhưng đi xa đến đâu vẫn thấy da diết nhớ...

                         

   

      Bình Định được xem là quê hương của bánh tráng, vì tương truyền rằng bánh tráng là món lương khô chiến lược được ra đời cùng với bước chân thần tốc của đội quân Tây Sơn đánh đuổi ngoại xâm. Và có lẽ chỉ có bánh tráng nước dừa là mang nhiều sắc thái Bình Định nhất – rất đạm bạc, thơm ngon và hiếu khách. bánh tráng nước dừa có bề mặt lớn bằng chiếc mâm thau, cộm lên những xác cơm dừa và mè hạt. Nguyên liệu chính để làm bánh tráng nước dừa là củ mì xát nhỏ, lọc kỹ với nước và gia vị. Cơm dừa được mài vụn lấy nước cốt từ chiều hôm trước, bột và gia vị chuẩn bị sẵn.


      Trong lúc chờ nước trong nồi sôi, người ta trộn đều bột với nước cốt dừa, vừng, gia vị. Khi nước sôi, múc bột đổ vào khuôn vải được căng trên miệng nồi, dùng gáo múc bột tráng đều trên mặt khuôn có chiều rộng bằng cái sàng gạo, đậy vung chừng 2 phút thì vớt bánh ra vỉ, cứ đủ 10 cái là phơi ra nắng. Tráng cho xong chiếc bánh rất đơn giản. Nhưng để cái bánh vừa tròn vừa đều, kích cỡ, độ dày xêm xêm nhau lại đòi hỏi phải có kinh nghiệm. Chỉ múc nhiều hoặc ít bột một tý, chiếc bánh sẽ to nhỏ không đều. Tráng không đều tay, chiếc bánh sẽ không tròn hoặc chỗ dày, chỗ mỏng… Chiếc bánh được vớt ra bằng chiếc que tre, trải tấm bánh vừa tráng xong lên vỉ cũng vậy. Động tác này chỉ được phép làm một lần, nếu đặt sai vị trí, gỡ ra đặt lại thì chiếc bánh sẽ bị rách. Khi phơi, làm sao cho bánh không bị cong cũng là một bí quyết. Những chiếc bánh tráng phơi khô, xếp lại một chồng được ràng (buộc) bằng dây chuối, vậy là được một ràng bánh tráng.


      Là món ăn ngon, giản dị, chỉ cần nướng nở thật đều qua lửa than. Khi gặp lửa, bánh căng phồng lên, nước dừa cứ ứa ra như lớp mỡ, dậy mùi béo ngậy, chưa ăn đã thấy mùi thơm quyến rũ. Nhai vào miệng giòn tan, vị béo của dừa hòa quyện với vị béo của mè, mùi hành kết hợp với mùi tiêu, vị ngọt của bột ngọt quyện với vị cay của tiêu tạo thành hương vị dân dã rất đậm đà, vô cùng hấp dẫn. Ăn bánh tráng nước dừa không cần bàn ghế bài bản, vừa ăn vừa nói chuyện, gặp ai cũng mời, cũng chia một phần. Có lẽ vì thế mà nó còn có tên là bánh thơm thảo.

            



                                                      "Muốn ăn bánh ít lá gai

                                         Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi.."

     Bánh ít là món bánh rất Bình Định - từ cách làm đến hương vị đều rất riêng. Bánh có hình nón, đáy vuông, sắc cạnh, nhọn lên tới đỉnh. Nếu có vài chiếc bánh đặt trong đĩa ta có thể tưởng tượng đó là những cụm tháp Chàm cổ kính sừng sững trên chỏm núi của vùng đất An Nhơn - đó là cách nhìn của họa sĩ. Nếu nhìn dưới đôi mắt của người bình thường thì đó là đôi nhũ hoa của thiếu nữ nên ca dao Bình Định có câu: "Gặt rồi em đứng chờ ai?/Mang chi đôi bánh lá gai đẫy đà".

     Bánh được gói bằng lá chuối tơ, mướt dịu và đen như mái tóc thiếu nữ. Nguyên liệu làm bánh ít lá gai lại rất dễ tìm ở vùng quê Bình Định. Hái một ít lá gai luộc chín, giã nhuyễn, cho thêm bột nếp tươi đã vắt ráo nước và đường cát vào giã, trộn đều là xong phần bột bánh. Phần nhân, ngoài đậu xanh và đường phải có dừa khô nạo cơm mới đúng "gu". Đậu xanh xay bửa đôi, ngâm đãi sạch vỏ, hạt lép, hấp chín sau đó cà thành bột. Cùi dừa xanh sò thành sợi, cho vào chảo bắc lên bếp lửa than cháy liu riu, sên với đường cát đến khi đường tới, dẻo quánh đũa thì cho bột đậu xanh vào. Liên tục đảo đũa đến khi nhân có màu vàng sẫm, khô rời, mùi thơm bốc lên ngào ngạt, vo viên được là vừa. Nhắc khỏi bếp, chờ khi nhân gần nguội, cho thêm nước muối và gừng để nhân ngọt dịu và dậy mùi. Vỏ bánh đen nhánh, bọc kín lấy nhân, khi ăn thật dẻo, thật mịn mà không dính răng. Ngoạm một miếng, ngậm mà nghe chút đắng của lá, cảm vị ngọt của đường, vị thơm của nếp, vị béo của dầu, vị bùi của đậu, hương cay nồng của gừng, mới thấy thấm cái hồn của ẩm thực quê hương.
        

   
     Rượu Bàu Đá là sự cộng hưởng của nhiều nhân tố. Đầu tiên đó là sự thừa hưởng dòng nước ngọt ngào của ngọn nguồn sông Kôn được ủ lạnh, lọc trong từ những hộc đá ngầm ở Vực Bà, Nước Miên, Nước Trinh, sông Kxôm, Hầm hô... Tiếp đến là sự khéo léo, cần mẫn của con người vùng “đất võ trời văn”. Sự cộng hưởng giữa thiên nhiên và tài hoa con người đã tạo nên thứ rượu đậm đà.

     Rượu Bàu Đá (còn gọi Bầu Đá) có nồng độ rất cao, hơn 50 độ, uống nhanh say nhưng say rồi không thấy mệt. Muốn có rượu ngon, người nấu phải tuân thủ các yêu cầu nghiêm ngặt về nguồn nước, gạo, men, dụng cụ nấu, cộng với kinh nghiệm gia truyền. Chỉ nguồn nước sông Kôn ngọt ngào mới cho ra loại rượu ngon, thơm và uống có hậu ấy (giới uống rượu dùng từ này chỉ cho loại rượu uống xong còn ngòn ngọt ở cổ). Khi nấu rượu, không dùng nồi nhôm mà dùng nồi đồng, nắp đậy nồi bằng đất nung; cất rượu bằng ống tre. Khi chưng cất không được vội vàng, phải dùng lửa liu riu mới vắt cạn được tinh chất gạo.

     Thưởng lãm rượu Bàu Đá cũng cầu kỳ lắm lắm; Rượu trong bầu, chai, nậm phải rót ra bình gọi là ve vòi, cái ve vòi đựng rượu có câu đố dân gian rằng:

Thượng tiểu, hạ đa (Trên nhỏ, dưới to)

Tích thủy, phi thủy (Đựng nước nhưng không phải nước)

Thọ thai, bất thọ thai (Chửa nhưng không phải chửa)

     Rót rượu ra chén cũng có kiểu, có cách: Ve vòi giơ cao, rót dòng rượu nhỏ ra chén hạt mít sao cho có tiếng kêu róc rách, vun bọt nhưng rượu không được tràn ra miệng chén. Rượu nước đầu trong vắt, rót sủi tăm, ực một cái thấy thót cả người, vừa cay, vừa ấm, vừa nồng, chạy đến đâu biết đến đó, như một luồng điện từ cổ xuống bụng và lan nhanh ra các mạch máu toàn thân. Rượu mới nấu nóng hôi hổi uống vào càng tuyệt. Có một điều lạ, dù có say ngất ngư, bạn có thể ngủ một giấc đến sáng mà không nhức đầu. Ca dao Bình Định có câu: "Rượu ngon Bầu Đá mê li/ Gặp nem chợ Huyện bỏ đi sao đành?".

     Rượu Bầu Đá không chỉ là rượu để nhậu mà còn là rượu lễ, rượu mừng không thể thiếu được trong các đám cưới, đám tang, đám giỗ.
   

       Khác với bánh xèo xứ Huế, chất liệu tạo ra bánh xèo Bình Định khá khiêm tốn nhưng hương vị không kém phần đặc trưng, hấp dẫn. Chất liệu chính làm ra bánh xèo chỉ có gạo, tôm, thịt bò, giá sống và một vài loại rau bản địa. Gạo phải được xay từ loại lúa ở cánh đồng khu Đông. Tôm phải là loại tôm đất sống nước lợ ở đầm Thị Nại. Nước chấm phải được pha chế từ loại nước mắm nguyên chất... Đổ bột vào khuôn xong, công đoạn thứ hai là chọn những con tôm đất hoặc tôm biển (trên 10 con) còn tươi roi rói nhảy lách tách trong rổ, rải tròn vào chiếc khuôn bánh đang trên lò than. Có nơi cầu kỳ cho thêm vài lát thịt bò thưng trông rất ngon mắt. Cuối cùng là hành hoa, hành tây xắt mỏng, giá đỗ và một ít nấm rơm bỏ vào giữa khuôn gọi là nhân. Đậy nắp khuôn lại... Bếp lửa hồng, tiếng nổ lách tách của những hòn than đỏ rực, tiếng reo "xèo xèo" của dầu mỡ khi tiếp xúc với lớp bột gạo lỏng sền sệt... sẽ làm lòng người ấm lại và như muốn cùng reo vui. Chừng 5 phút sau dỡ nắp ra và chờ bánh vàng giòn đều mặt dưới! Hơi nóng và mùi thơm tỏa ra ngùn ngụt làm ta phải háo hức, chỉ mong bà chủ nhanh bê bánh ra để thưởng thức. Mỗi đĩa thường thì chỉ bỏ được hai bánh. Chiếc bánh được tán mỏng, nổi rõ những con tôm đất tròn mẩy, hươm vàng. Ăn kèm với bánh xèo ở đây là bánh tráng gạo nguyên chất, dùng để cuốn với rau sống, một ít xoài và dưa leo xắt mỏng. Bên cạnh là chén nước mắm được giã đầy đủ ớt, tỏi, chanh, đường. Món ăn có hấp dẫn hay không còn tùy thuộc cách chế biến loại nước chấm này. Ta có thể nhúng ướt nửa cái bánh tráng, đặt bánh xèo lên trên kèm một ít rau sống, gia vị... rồi cuốn chặt lại. Chấm vào chén nước mắm vàng ươm ngọt ngào hương vị miền biển rồi rứt từng miếng cho vừa miệng mà thưởng thức. Chao ôi! Cái ngọt của tôm tươi, cái giòn giòn của gạo đủ lửa và một chút chua, chát của xoài và chuối chát, quyện tất cả lại thành một món ăn vô cùng hấp dẫn. Thưởng thức bánh giữa khung cảnh làng quê dung dị, yên bình, lòng chợt thấy thảnh thơi lạ kỳ.

 

     "Ai về Vĩnh Thạnh quê em/Ăn nem chợ Huyện, đêm xem hát tuồng”. Theo kinh nghiệm gia truyền của các nhà sản xuất, nem ngon là nhờ vào cách chế biến công phu nhưng yếu tố chính vẫn là thịt heo. Thịt, phải là thịt heo cỏ 6-8 tháng tuổi, cân nặng chừng 60kg trở lại. Heo có thịt săn nhiều nạc, màu đỏ sẫm. Thịt nạc phải săn, tươi, được cắt theo chiều ngang thớ thịt chừng 3cm, thái nhỏ, để ráo nước rồi mới cho vào cối quết. Thợ làm nem là những người trai lực lưỡng. Muốn thịt được nhuyễn, dai, giòn, người thợ phải quết liên tục, không có quãng thời gian ngừng tay lâu, chỉ dừng lại khi thịt đã “chín”. Mỗi cối thịt chỉ nặng chừng vài ký. Trong lúc quết, họ còn cho thêm đường và muối theo một tỷ lệ chính xác. Khi thịt đã chín, nhuyễn người ta cho tiêu hạt và da heo đã xắt nhỏ như con bún, hoặc như hạt lựu.




     Nem chợ Huyện có vị ngon rất riêng và độc đáo: Không mềm như nem Thủ Đức, cũng không ngọt như nem Lai Vung, nem An Cựu. Khi ăn, lột bỏ hai cuộn lá chuối bên ngoài, rồi đến lớp lá ổi bên trong, ruột nem hồng hồng hiện ra xinh xắn đã thấy nước miếng tứa ra chân răng. Cắn một miếng, ta cảm nhận ngay vị dai dai, sần sật, chua chua, giòn giòn, vị ngọt thanh khó diễn tả. Nem tươi có mùi vị thơm lựng sau khi được nướng than, ăn kèm với rau mùi, tía tô, rau răm, chuối, khế xắt nhỏ, dưa leo, nước chấm (hoặc xì dầu) và vài múi tỏi, trái ớt. Nhưng, nem chợ Huyện cuốn với bánh tráng cùng rau mùi mới là món “đắm say lòng người". Người ta gọi món này là bánh cuốn, trong đó nem là món chủ đạo. Tuốt một xâu nem bỏ vào lòng bánh tráng, thêm chút rau, vài cuốn chả ram (chả giò), rồi quấn chặt lại. Lúc này, tô nước chấm mới quyết định người ăn ghiền đến mức nào. Càng ăn càng ghiền, thực khách đánh chén đến căng bụng mới thôi.